Website Hội Nhà Báo Việt Nam, 4-6-2011 (Lộc Vừng đưa lại) -- Trong 2 ngày 3, 4 tháng 6 năm 2011, tại Hà Nội, Hội đồng Chung khảo Giải báo chí Quốc gia lần thứ V - 2010 đã tiến hành chấm chung khảo.
Chiều ngày 4 tháng 6, dưới sự chủ trì của đồng chí Đinh Thế Huynh, Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Giải báo chí quốc gia, Chủ tịch Hội đồng chung khảo, Hội đồng đã thảo luận, bỏ phiếu và quyết định công bố kết quả cuối cùng, như sau:
Trong số 161 tác phẩm lọt vào chung khảo thuộc 8 loại giải, có 69 tác phẩm đoạt giải, trong đó có: 02 giải A, 24 giải B, 43 giải C và 59 Giải khuyến khích. Giải tin, bài phản ánh, ghi chép (báo in) có 1 giải A, 5 giải B, 6 giải C; Giải xã luận, bình luận, chuyên luận có 4 giải B, 2 giải C; Giải phóng sự, phóng sự điều tra, bút ký báo chí (báo in) có 01 giải A, 2 giải B, 8 giải C; Giải ảnh báo chí có 2 giải B, 3 giải C; Giải phát thanh dành cho tin, bài phản ánh, phỏng vấn, toạ đàm, bình luận, chuyên luận có 1 giải B, 3 giải C; Giải phát thanh dành cho phóng sự, phóng sự điều tra, bút ký phát thanh có 1 giải B, 6 giải C; Giải báo hình dành cho bình luận, toạ đàm, giao lưu, phim tài liệu có 4 giải B, 5 giải C; Giải báo hình dành cho tin, phóng sự, phóng sự điều tra có có 5 giải B, 7 giải C. Ngoài các tác phẩm đoạt giải chính thức, Hội đồng Giải còn quyết định trao 59 giải khuyến khích.
So với 4 mùa giải trước, Giải báo chí Quốc gia lần thứ V - 2010 có số lượng tác phẩm dự giải cao nhất từ trước đến nay với tổng số 1321 tác phẩm (các năm trước đều chưa đạt 1000 tác phẩm). Điểm mới năm nay là các cấp Hội ở Trung ương (các Liên chi hội, Chi hội trực thuộc) quan tâm đến giải nhiều hơn với 73 đơn vị (năm trước chỉ 43 đơn vị). Số Hội Nhà báo tỉnh, thành phố có tác phẩm dự Giải cũng tăng so với năm trước. Mặt khác, Hội đồng Giải có cơ chế mới đối với ảnh báo chí, cho phép tác giả ảnh báo chí gửi thẳng tác phẩm về Hội đồng Giải, không qua tuyển chọn ở cơ sở, nên đã thu hút được số lượng tác phẩm ảnh báo chí cao nhất từ trước đến nay và gấp hai lần năm trước.
Giải thưởng Báo chí Quốc gia Việt Nam 2010 (trao 21-6-2011 tại Hà Nội)
Về chất lượng, các tác phẩm dự Giải đồng đều hơn các năm trước, không có tác phẩm quá yếu kém. Tác phẩm có chất lượng cao vẫn tập trung ở khối báo chí Trung ương và các thành phố lớn. Nhiều địa phương đã mạnh dạn gửi tác phẩm và nhiều tác phẩm đạt chất lượng tốt. Các tác phẩm đã bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, của ngành, của địa phương; phản ánh kịp thời, sinh động và đa dạng tình hình kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước. Nhiều tác phẩm đi sâu giới thiệu những nhân tố mới, gương người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến trong hoạt động kinh tế, đầu tư phát triển, ngăn chặn suy giảm kinh tế; xoá đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; khắc phục hậu quả thiên tai lũ lụt; đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; đấu tranh với các thế lực thù địch, các hoạt động sai trái chống phá Nhà nước; vấn đề phát trển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, về nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Đặc biệt, năm 2010 có nhiều tác phẩm dự Giải phản ánh sự kiện chính trị lớn: Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội và nhiều tác phẩm viết về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, chưa có tác phẩm thực sự nổi trội.
Lễ trao Giải sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào tối 21/6/2011, đúng dịp kỷ niệm 86 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam và được truyền hình trực tiếp.
Chúng ta tìm kiếm gì trong hành trình ngắn ngủi cuộc đời?
Thành công? - Chắc chắn rồi.
Sự giàu có? - Hẳn là thế, rất cần nữa là khác.
Một sự nghiệp thành đạt. - Làm sao có thể thiếu, đó là nền tảng của mọi ước muốn kia.
Tình yêu ngọt ngào và vĩnh cữu. - Bạn thật lãng mạn và đã lựa chọn chính xác. Đời còn lại gì nếu chẳng có tình yêu?
Gia đình ấm áp. - Tuyệt vời! Home sweet home.
Còn nữa, sức khỏe, bạn tri kỷ, danh tiếng, quyền lực...
Danh sách sẽ còn kéo dài mãi cho tới khi bạn không còn sức để liệt kê. Sao không trả lời giản dị hơn. "Cuộc đời là hành trình dài kiếm tìm hạnh phúc".
Tới đây lại là một vấn đề khác. Ai có thể định nghĩa hạnh phúc? Thử cố xem sao... Chà, quá khó.
Vậy là cái gì đây? Thế này thì sao? "Chúng ta xuất hiện, tồn tại và biến mất khỏi Địa Cầu để sống một cuộc đời có ý nghĩa".
Tôi không biết xác định cái "ý nghĩa" này thế nào. Có lẽ nó rất giản dị và gần gũi thôi. Yêu công việc đang làm. Yêu cuộc sống đang được tận hưởng. Yêu gia đình đang chăm sóc và vun đắp. Yêu thương và yêu thương...
Nếu chưa bằng lòng với hiện tại của mình, hãy làm tất cả để thay đổi cái thực tại tồi tệ đó thành thứ bạn mong muốn. Làm là một động từ, một hành động cụ thể, không bao gồm việc than thở và chờ đợi Bụt hiện lên.
Điều này rất thách thức nhưng không khó. Ai cũng có thể đạt được khi có đủ hai điều kiện. Thứ nhất, thực sự biết mình muốn gì. Thứ hai, tuyệt đối tin tưởng vào chính mình và hiểu rằng chính bản thân mình sẽ thực hiện điều tuyệt vời là thay đổi hiện tại chưa ưng ý của mình.
TS. VƯƠNG QUÂN HOÀNG – Đại học Tổng hợp Brussels (Bỉ)
Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa thập niên thứ hai, thế kỷ XXI. Tuy vậy, mốc thời gian không quan trọng bằng những đổi thay chóng mặt của quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, và những biến đổi sâu sắc nó sẽ mang lại. Quá trình ấy, ngay bây giờ, lại được phóng đại qua lăng kính của những biến động toàn cầu do khủng hoảng kinh tế – tài chính 2007 – 2009, điều có thể dẫn tới những biến đổi lớn về cấu trúc kinh tế nhân loại, cũng như diễn tiến địa – chính trị khắp nơi trên thế giới.
1 – Kinh tế Việt Nam năm 2009
Dân số nước ta hiện nay xấp xỉ 85,9 triệu người, hiển nhiên là một quốc gia có dân số lớn của hành tinh khoảng 7 tỉ. Nếu như phần đông kinh tế gia quen với khái niệm bản chất của lạm phát là do quá nhiều tiền cạnh tranh nhau để giành về một số lượng quá ít hàng hóa, thì ở một nghĩa khác, nói như Min-tơn Frai-men (Milton Friedman), đó cũng có thể là quá nhiều người tìm kiếm một số lượng hàng hóa rất hữu hạn. Như vậy, dân số lớn, bên cạnh ưu điểm nguồn lao động dồi dào, chính là một câu hỏi lớn về khả năng cải thiện kinh tế.
Trong suốt hơn hai thập niên đổi mới, kinh tế Việt Nam liên tục duy trì đà tăng trưởng tương đối. Chất lượng mở rộng kinh tế thể hiện qua thống kê GDP bình quân đầu người từ mức 200 USD/người (năm 1986) đã tăng lên gấp 5 lần, đạt 1.000 USD/người vào năm 2008, và ước tính sẽ vượt 1.200 USD/người sau năm 2010. Sức hấp dẫn của nền kinh tế Việt Nam cũng thể hiện ở quy mô vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng lên. Dù chịu ảnh hưởng từ các biến động kinh tế quốc tế, trở ngại của môi trường kinh doanh trong nước, sự gia tăng cạnh tranh thu hút nguồn lực từ các nền kinh tế đang phát triển trên thế giới, liên tục trong hai thập niên, tỷ lệ FDI so với GDP chỉ hai lần thấp hơn tăng trưởng GDP thực tế, vào các năm 1991 – 1993 và 2003 – 2007. Lượng vốn FDI năm 2009 vẫn có được tín hiệu tốt, một cách so sánh so với bối cảnh khu vực, với mức cam kết mới 20 tỉ USD, và phần giải ngân lượng cam kết quá khứ để cấu thành nguồn lực thực tế 8 tỉ USD.
Tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu ngắn và trung hạn để giải tỏa áp lực này. Trong một bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu như năm 2009, tăng trưởng theo quý của Việt Nam được xem như một nỗ lực có kết quả, với Quý I tăng 3,14%, Quý II tăng 4,46%, Quý III tăng 5,76% và ước Quý IV tăng 6,8%. Với mức tăng trưởng này, nền kinh tế đã tạo ra được hơn 1,5 triệu việc làm trong năm 2009, và đây là một con số có rất nhiều ý nghĩa, nếu so sánh với con số gần 800 tỉ USD mà nước Mỹ phải chi ra để cứu vãn tình trạng thất nghiệp – một trong những vấn đề nghiêm trọng và đáng sợ nhất của nền kinh tế thị trường – trong khi tình trạng thất nghiệp tại Mỹ vẫn ở mức hai con số.
Một trong những chương trình kinh tế lớn của năm 2009 là triển khai gói kích thích kinh tế và an sinh xã hội trên quy mô toàn quốc, có giá trị tiền tệ ước tính 100.600 tỉ đồng, với vai trò rất quan trọng của: (1) Hệ thống ngân hàng thương mại là bơm hơn 418.000 tỉ vốn ngắn – trung hạn có hỗ trợ lãi suất tới hệ thống sản xuất – dịch vụ của nền kinh tế ; (2) Hệ thống tài chính chính phủ tăng cầu qua 20.000 tỉ miễn giảm thuế; (3) Hệ thống đầu tư nhà nước, với 60.800 tỉ; và, (4) Chi thường xuyên cho an sinh, khoảng 9.800 tỉ.
Về hiệu suất triển khai, chương trình có thể coi là thành công trước mắt từ thực tế ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, quá trình tạo việc làm mới, cũng như sự phục hồi niềm tin của dân cư và nhà đầu tư ở một số thị trường tài sản. Sản xuất công nghiệp và tiêu dùng xã hội được hồi sinh, ít ra là thoát khỏi sự yếu ớt ở quý IV-2008 và Quý I-2009. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi lạm phát ở mức ước tính cả năm 7%; và chỉ có một loại “lạm phát phấn khích” đã từng xuất hiện trong khoảng thời gian 4 – 5 tháng giữa năm 2009: tăng giá tài sản tài chính. Sau khi rớt đáy vào cuối tháng 2-2009 (VN Index: 235,5 và HNX Index: 78,6), các thị trường chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều đã tăng mạnh, lần lượt là 165% và 180%. Mặc dù xuất hiện sụt giảm từ cuối tháng 10, các chỉ số chứng khoán về cuối năm vẫn giữ mức tăng trưởng vài chục phần trăm.
Có thể nói, một phần sức khỏe của nền kinh tế được phục hồi nhờ những nguồn lực bổ sung nói trên, và cũng cần công nhận sự chèo lái bền bỉ của hơn 300.000 doanh nghiệp (theo số thống kê) cũng như hàng triệu hộ gia đình nỗ lực giải quyết sức ép của suy giảm thu nhập thực tế bằng vô số phương cách mà không chính sách vĩ mô nào soạn thảo ra được.
Tuy vậy, cũng có những con số khiến chúng ta không thể không lo ngại. Thâm hụt ngân sách tăng lên mức cao trong lịch sử, 6,8% GDP. Số người nghèo – theo chuẩn của chúng ta – vẫn ở mức 11%, mặc dù đã giảm. Sự ám ảnh của nhập siêu đã quay lại với mức 11,54 tỉ USD; như thế, kỳ vọng khống chế dưới 10 tỉ USD nay đã lại là con số quá khứ, và tới hơn 1 tỉ USD cho nhập hàng công nghệ xa xỉ như ô-tô. Trong khi đó, nỗi lo suy giảm xuất khẩu đã thành sự thật, đứng ở mức xấp xỉ 50 tỉ USD, giảm 15%(1).
Sức khỏe nền kinh tế hiển nhiên không thể chỉ đo bằng vài con số thô sơ, khi mà ngay cả dấu hiệu sức cạnh tranh hàng hóa Việt ngay tại thị trường Việt Nam cũng đủ để xã hội lo lắng. Đó là chưa kể hệ thống an sinh vật chất lẫn tài chính còn ở trình độ rất thô sơ, và mỗi sự cải thiện đều cần can thiệp trực tiếp từ Chính phủ, từ số giường bệnh, phòng học đến những khoản trợ cấp vùng nghèo hay bão lụt. Nói cách khác, nền kinh tế vẫn đang thiếu hụt những nền móng xã hội cho một công cuộc lấy sức chạy đua trên đường dài.
Bản thân quá trình phục hồi kinh tế, cũng chứa đựng những mối âu lo của năm 2010, và cả những năm sau. Lượng tín dụng biểu hiện trong hình 2 cho thấy, việc tiệm cận mức rủi ro mà nền kinh tế có thể chấp nhận, trước cân nhắc lạm phát và rủi ro nợ khó đòi trong tương lai của hệ thống ngân hàng. Trên thực tế, vẫn còn 7.000 tỉ đồng hỗ trợ lãi suất, nhưng hiệu lực thực tế của hỗ trợ này đã suy giảm từ khoảng tháng 10-2009, do khuynh hướng lãi suất, tình hình sử dụng vốn và tính khó nắm bắt của hiệu quả tài sản kinh doanh hình thành từ nguồn vốn trợ cấp. Trí nhớ của thị trường chưa kịp xóa đi những ám ảnh về tín dụng và thanh khoản của hệ thống ngân hàng cuối năm 2007 – đầu năm 2008(2). Không có gì khó hiểu khi Quốc hội đặt câu hỏi về sự công bằng và tính hiệu quả vào kỳ họp cuối năm 2009. Sự phục hồi rất mong manh, và cần nhiều hơn chỉ một nguồn tín dụng mang tính trợ cấp, vốn cũng đi ra từ nguồn thu của chính nhân dân.
2 – Nhận thức về vận động kinh tế
Sau 23 năm đổi mới, nước ta cũng chỉ mới bước đầu trên hành trình tìm kiếm phương tiện cho mục tiêu thịnh vượng. Xét cho cùng, hành trình ấy là của hàng triệu cư dân, và cũng bắt đầu từ lịch sử xa xôi. Vân Đồn, Phố Hiến, Kẻ Chợ hay Đà Nẵng, Hội An, từ thế kỷ XVII đã nằm trong ký ức lịch sử thương nhân khu vực và châu Âu như điểm đến của cơ hội kinh tế. Ở đó, các giao dịch không chỉ phản ánh lợi ích và hành vi giao thương, mà con người và hàng hóa Việt Nam đã từng là lực lượng khẳng định hành trình tìm kiếm sự thịnh vượng. Kể cả trước đó nữa, thì sự hồi sinh kinh tế của Thăng Long dưới triều Vua Lê Thánh Tông (1449 -1497) cũng phản ánh phần lớn qua cơ cấu kinh tế “36 phố phường” của sản xuất, dịch vụ và giao thương.
Điều chúng ta có thể nhìn thấy từ hành trình này là một quy luật chung về tự do kinh doanh, bao gồm cả quyền sở hữu tài sản cá nhân, và quyền được tôn trọng sự độc lập kinh tế của cá thể, nhóm. Các kết cục chung của những thời kỳ thịnh vượng – thường khiến chúng ta tiếc nuối – lại có nguyên nhân nói chung đơn giản. Đó là khi quyền sở hữu tài sản cá nhân bị tước đoạt, sự can thiệp khiến tự do và độc lập kinh tế cá nhân chỉ còn là hình thức, và sức ép chi tiêu trước mắt khiến cho các xã hội, bao gồm cả nhà nước, dồn hết nguồn lực cho tiêu dùng ngắn hạn. Nói như cách hiểu của giới kinh tế về ràng buộc ngân sách là sự sẵn sàng chiết khấu giá trị của tương lai để tiêu dùng hiện tại. Hiển nhiên, điều này không chỉ xảy ra với một quốc gia cụ thể như Việt Nam trong thời kỳ hơn 2.000 năm phong kiến. Nước Pháp chỉ với đồng tiền Franc vàng, cũng đã có biến đổi từ Vua Charles V (1364 – 1390), khi ấn định một Franc vàng (Franc-à-cheval) là 3,83 gram vàng đã rút giá trị xuống 0,29 gram thời Louis XVI, một hình thức kiếm lợi từ việc giảm giá trị đồng tiền mà giới nghiên cứu gọi là sei-ni-o-rei (seigniorage). Bản thân triều Nguyễn, trước khi vua Tự Đức đầu hàng chịu sự bảo hộ của Pháp, cũng đã xảy ra những quá trình kinh tế suy thoái, phần nào có nguồn gốc từ sự ra đi của những lực lượng thương mại trứ danh, vốn đã làm phồn thịnh các cảng biển giao thương của Việt Nam từ thế kỷ XVI(3).
Cho tới lúc này, nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO. Hoặc ngẫu nhiên, hoặc cũng có thể là tác động nhân quả ngắn hạn, những năm đầu gia nhập WTO là thời kỳ nhiều sóng gió cho nền kinh tế thị trường non trẻ của chúng ta. Chỉ khi đứng trước những biến cố lớn – và nhận thức rõ sự hạn chế phương pháp tư duy, chiến lược phát triển kinh tế trong lúc đó – ta mới tự thấy hiểu biết hạn chế đến thế nào về chính những khái niệm kinh tế thị trường mà cả xã hội đã hào hứng “học từ vựng” trong hơn hai thập niên qua.
Điều khó của từ vựng không nằm ở bản thân nghĩa của từ, mà nằm ở hệ thống nhận thức luận về các quá trình đang diễn ra và chi phối chúng. Khi quá trình thay đổi, nghĩa của từ cũng thay đổi. Một hình ảnh mô phỏng có thể minh họa là khi các thị trường thế giới đang tìm cách đánh giá lại giá trị đồng USD, thì cũng là lúc nhận thức về hành trình ưu việt của nền kinh tế Mỹ bị rung lắc mạnh.
Quá trình của Việt Nam, cho dù là nền kinh tế rất nhỏ bé so với thế giới, cũng không kém phần phức tạp, đó là vì chúng ta còn có thêm một yếu tố bổ sung mang tên “Quá trình chuyển đổi”. Quá trình này đã đem lại những lợi ích cụ thể cho đời sống kinh tế quốc gia, tuy nhiên trong các bản báo cáo thành tích thường ít đem lại gợi ý cho một lý thuyết tương lai. Chúng ta cần một bức tranh mang tính phân tích sâu sắc hơn một báo cáo.
Bên cạnh những thành tựu – mà độc giả đều thường xuyên được cập nhật sớm – thì độc quyền có lẽ là phần bức tranh méo mó nhất của quá trình chuyển đổi, điều mà chính các nền kinh tế tư bản – xây trên móng vận hành thị trường nhiều thế kỷ, với những phép biến đổi lịch sử rất căn bản – luôn phải đối phó bằng cả luật pháp lẫn đạo đức. Tuy vậy, độc quyền ấy đang diễn ra vừa công khai vừa âm thầm trong nền kinh tế Việt Nam, và tác động ngày một mạnh hơn lên diễn biến kinh tế, thông qua các lợi ích nhóm – về cơ bản là “cận thị” và mang tính phá hủy – có thể dễ dàng quan sát thấy bởi các triệu chứng giá, điều tiết nguồn cung, từ bỏ các cam kết vốn là nguồn gốc để độc quyền được đặt vào tay họ (ví như Tập đoàn Điện lực Việt Nam từ chối xây nhà máy điện hay cắt bỏ các dây cáp viễn thông của VNPT do tranh chấp về giá thuê cột), mà mục tiêu cuối cùng cũng chỉ là khái niệm rất gần gũi: Tô kinh tế độc quyền. Bản thân C. Mác đã dành rất nhiều công sức để chỉ rõ về mặt nhận thức tác hại của các loại tô, mà những kinh tế gia hiện đại nhất, cổ vũ thị trường tự do, bao gồm cả chính sách tự do kinh doanh (laissez-faire), cũng thừa nhận rằng đánh thuế 100% tô kinh tế cũng không tác động gì tới cấu trúc và hiệu suất nền kinh tế. Nhưng giờ đây, chúng tồn tại khắp nơi, hiển hiện và ở quy mô lớn tới mức gây ra sự đột biến về chênh lệch thu nhập, lợi tức mà các nhà tư bản kếch sù nhìn thấy ở Việt Nam cũng phải thèm thuồng. Đất đô thị, đất chuyển mục tiêu kinh doanh, dầu mỏ, khoáng sản, và cả bản thân tư bản… là mục tiêu khai thác tô kinh tế của các tập đoàn.
Các đại biểu Quốc hội vẫn tiếp tục chất vấn về hiệu quả đầu tư khi ICOR liên tục tăng và đạt 8 lần vào năm 2009 (xem bảng 1). Quan điểm của Ri-cac-đô về tăng đầu tư để hy vọng tăng sản lượng đã được thực tế chứng minh không hiệu quả. Trong bối cảnh thế giới cũng đang đứng trước thách thức tìm kiếm mô hình phát triển bền vững mới, hướng đi kinh tế tri thức, sáng tạo càng trở nên cần thiết và quan trọng theo nguyên lý khởi nghiệp với giả định nguồn lực không có sẵn từ trước.
Bảng 1: ICOR qua các giai đoạn
Giai đoạn
ICOR
1991 – 1995
3,05
1996 – 2000
4,80
2000 – 2003
5,24
2004 – 2006
5,04
2007 – 2008
6,15
2009
8,00
Nguồn: Tổng cục Thống kê, năm 2009
3 – “Sự phá hủy mang tính kiến tạo”
C.Mác là một thiên tài, với trí lực không chỉ kiệt xuất mà gần như có thể nói là toàn diện, đã đi trước thời đại của ông nửa thế kỷ khi đặt nền móng cho lý thuyết chu kỳ, với những tiên liệu về khủng hoảng. Điều mà chúng ta muốn mượn từ trí lực của C.Mác chính là quan điểm biện chứng lịch sử về quá trình cạnh tranh và phá bỏ chính những nền móng phôi thai một phần cơ thể của kinh tế thị trường, rồi tiếp tục xây dựng mới. Bản thân C.Mác, với trí tuệ thiên tài, đã nói rất rõ trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng hệ thống kinh tế thị trường đã mang lại những thành tựu công nghiệp, kinh tế, đô thị và sức sống mà hàng triệu năm lịch sử loài người không tiến tới được. Đó là quá trình mà nhà kinh tế lỗi lạc của thế kỷ XX, Schăm-pít-tơ (Schumpeter) gọi là “Sự phá hủy mang tính kiến tạo”(4).
Đối với ý nghĩa của “Sự phá hủy mang tính kiến tạo” chúng ta đều hiểu sự chuyển dịch gì xảy ra khi 4 chữ cuối bị cắt bỏ. Bản thân Schăm-pít-tơ, cha đẻ của thuật ngữ làm thay đổi cách nghĩ của thế giới về các quá trình thị trường, về cơ bản cũng đồng ý với C.Mác về cái đích đi đến của chủ nghĩa tư bản – là sự chấm dứt và thay thế nó – thông qua bản thân cái mà ông gọi là cơn bão dồn dập, không ngừng nghỉ của sự phá hủy và tái tạo; một quá trình tự nó cũng có cái bẫy của sự gián đoạn tái tạo, hoặc bản thân cán cân đó nghiêng về phá hơn là xây.
Quá trình này đang diễn ra trong nền kinh tế của Việt Nam, và mạnh mẽ hơn qua năm 2009, cho dù những kết quả sàng lọc có thể chưa được thống kê. Bản chất sự chuyển đổi kinh tế đã gắn liền với chuyển đổi sở hữu tài sản vốn và vật chất, gắn liền với chúng là lợi ích kinh tế. Như vậy, câu hỏi lớn về phúc lợi kinh tế toàn thể, trước sau cũng đặt ra câu hỏi về số phận tài sản sẽ nằm trong tay một số nhỏ những người rất giàu có của chính Việt Nam, và quá trình phân phối tài sản trong thu nhập quốc dân.
Tầng lớp tư sản thị thành đang tăng lên nhờ những tích lũy tài sản chủ yếu là tư bản và bất động sản, nhưng quá trình tiêu dùng kiểu “hiệu ứng Du-e-sen-bơ-ri (Duesenberry)” (nhà kinh tế Mỹ James Duesenberry) đang góp phần biến đô thị thành nơi tạo ra sự bất bình đẳng và nhập siêu cho lối sống xa hoa; với những thanh niên con nhà giàu một đêm đốt cả năm lương của một công chức lương thiện cho giải trí, hay những thú tiêu dùng sùng bái vật chất tới mức một chiếc xe hơi có thể là lượng tư bản đủ kiến tạo 3 – 4 nhà máy hạng vừa. Nếu hời hợt cho rằng đó là sự tất yếu của kinh tế thị trường và thừa nhận không cần suy xét thêm, thì cũng đồng nghĩa với việc sẵn sàng trượt vào vết xe tiêu dùng không tích lũy, mất cân bằng trong cả tăng trưởng lẫn tiến bộ của trạng thái kinh tế; điều mà ít nhiều quá trình phá kỷ lục nhập siêu liên tục cả thập kỷ vừa rồi mách bảo mỗi người từ tiềm thức.
Rõ ràng nhập siêu không bắt buộc phải gắn liền và càng không phải là nguyên nhân tạo ra tăng trưởng, tiến bộ của nền kinh tế thị trường – qua trường hợp của Trung Quốc suốt vài thập niên qua, hay trước đó là Nhật Bản, Hàn Quốc. Hàng hóa tư bản nhập khẩu cũng không bảo đảm sự phát triển thành công của sáng tạo công nghệ và khai thác các cơ hội chiến lược, giống như lịch trình công nghệ ti-vi của Việt Nam vẫn chỉ đem lại sự độc lập ở chiếc hộp các-tông hay hơn nữa thì là lớp bọc xốp. Khái niệm giá trị lao động kết tinh vay mượn của C.Mác, nếu được bóc tách bằng lượng gia tăng nội địa, chỉ giúp chúng ta kết luận về sự thua kém thảm hại năng suất và chất lượng lao động giữa cái được kết tinh ở đây, với cái được thị trường thừa nhận trong nhà máy của Sony hay Toyota mà thôi.
Như vậy, trong hành trình kinh tế dù là đi đến thịnh vượng dài hạn, hay là đi qua thời kỳ chuyển đổi thành công – để trở thành một quốc gia công nghiệp năm 2020 – như các nhà hoạch định đã đặt ra, thì một công việc sống còn vẫn là hệ thống lý thuyết kinh tế dẫn đường cho không chỉ tăng trưởng, mà cả phát triển và tiến bộ.
Ở trong bối cảnh của Việt Nam, và dựa trên những nhận thức luận về tiến trình kinh tế lâu dài của lịch sử đương đại, có thể nhìn thấy được một cột trụ quan trọng bậc nhất của nó là hệ thống lý thuyết về khởi nghiệp, mà từ những năm cuối thập niên 90 thế kỷ XX, bắt đầu nhận được sự quan tâm nhiều hơn thông qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho khối doanh nghiệp vừa và nhỏ (thường gọi tắt là SME). Tuy nhiên, nền kinh tế khởi nghiệp không chỉ giới hạn trong phạm vi SME mà thôi, mà những quốc gia rất phát triển như Ca-na-đa đã mở rộng biên giới của lý thuyết khởi nghiệp tới tận bộ máy chính phủ, theo những phương cách nghiên cứu kỹ lưỡng và đã rất thành công. Trên thực tế, không ở khu vực nào trong nền kinh tế mà tính sáng tạo, sự tiến bộ công nghệ và tích tụ lại có thể hiệu quả hơn khu vực ngự trị bởi tinh thần khởi nghiệp.
Thị trường thiếu vắng những cơ hội tạo giá trị mới – đầu ra của quá trình khởi nghiệp – là môi trường thuận lợi cho phát triển các hành động đầu cơ. Cảnh đông đúc tại các tiệm vàng, cửa hàng thu đổi ngoại tệ trong những ngày biến động giá vàng và USD của tháng 11 vừa qua thể hiện rõ ràng nỗ lực tìm kiếm lợi nhuận ngắn hạn, đồng thời với trú ẩn tài sản(5). Liên thông chứng khoán, bất động sản, tín dụng đã mở rộng sang các thị trường thanh khoản linh hoạt hơn là vàng và ngoại tệ(6). Hiện tượng bất thường này được nhà kinh tế học người áo Lút-vích Vôn-mi-sơ (Ludwig Von Mises) lý giải như hành động hợp lý của mỗi con người kinh tế. Trong đó, cá nhân giao dịch vội vã tới mức không kịp quan sát các điều kiện thị trường thay đổi cũng như dự báo kết cục thị trường trước hành vi đồng nhất của đám đông. Họ đặt dự tính kiếm lợi và tránh mất mát tài sản lên trên hết.
Khởi nghiệp, như một quá trình phức tạp và đồng bộ, có ảnh hưởng quan trọng tới sự thịnh vượng và ổn định của nền kinh tế trong dài hạn. Nhưng chính cộng đồng doanh nhân khởi nghiệp Việt Nam cũng có những vấn đề, tiềm ẩn hay rõ ràng, tác động tiêu cực tới hành trình kinh tế tương lai. Đó có thể là mô hình kinh doanh dựa trên tìm kiếm đặc lợi kinh tế (rent-seeking), quan hệ tín dụng với ngân hàng bằng quan hệ cá nhân, và những hệ quả từ hệ thống giáo dục kinh doanh coi trọng hình thức và bằng cấp. Trong trào lưu chứng khoán hóa, thâu tóm – sáp nhập (M&A) doanh nghiệp, một bộ phận doanh nhân khởi nghiệp đang dịch chuyển vai trò từ người chủ doanh nghiệp sang nhà quản lý hưởng lương – khởi nguồn của vấn đề xung đột lợi ích đại diện, và từ người khởi nghiệp thuần túy sang nhà tư bản. Các định chế thị trường thúc đẩy quá trình tách biệt sở hữu và kiểm soát phân định rạch ròi giữa nhà tư bản không khởi tạo kinh doanh và người khởi nghiệp không sở hữu tư bản. Khi kinh doanh thất bại, nhà tư bản mất tiền vốn đầu tư. Người khởi nghiệp chịu rủi ro với phần vốn chính họ bỏ ra, thường là khoản đầu tư (nhỏ tương đối so với nhà tư bản) từ tích lũy cá nhân để ươm mầm kinh doanh ban đầu. Bởi vậy, không nên kỳ vọng năng lực chấp nhận rủi ro đặc biệt ở những người khởi nghiệp. Kinh tế khởi nghiệp bác bỏ quan niệm “rủi ro cao, lợi nhuận cao”. Lợi nhuận là phần thưởng dành cho khả năng nhận thức nhanh nhạy của người khởi nghiệp trước các cơ hội tạo giá trị, chứ không phải các hành vi kinh tế mạo hiểm.
Một nghị sự cho khởi nghiệp có lẽ đáng được coi là cấp thiết và quan trọng bậc nhất cho 2010, thay vì con số GDP hay lượng vốn cần cấp cho các tập đoàn nhà nước. Cuối cùng thì sức mạnh kinh tế vẫn nằm trong tay của hàng triệu người lao động, và được thể hiện qua sức phát triển bền bỉ, quy mô và sự đa dạng của hệ thống khởi nghiệp trong nền kinh tế./.
—————————————-
(1) Số liệu ước tính cho tới hết tháng 11-2009
(2) Vương Quân Hoàng: Nhìn lại nền kinh tế Việt Nam 2008 phải trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới, Tạp chí Cộng sản điện tử số 2 (170), tháng 1-2009
(3) ở thế kỷ XVII, theo lời một số giáo sĩ châu Âu, kinh thành Thăng Long là đô thị giao thương sầm uất không thua kém nhiều thành phố lớn châu Âu, lúc đó đang trên đà phục hưng và chuẩn bị cho một cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thời kỳ sau đó
(4) Nguyên văn “The perennial gale of creative destruction,” ông viết trong cuốn sách kinh điển Capitalism, Socialism and Democracy, Harper & Brothers, 1942
(5) Trong 3 giờ đồng hồ, từ 9h đến 12h sáng ngày 11-11-2009, giá vàng trên thị trường trong nước liên tục tăng lên với mức chênh lệch cao nhất 3 triệu đồng/lượng
(6) Vương Quân Hoàng và Nguyễn Hồng Sơn: Về mối liên thông giữa thị trường bất động sản, vốn và tiền tệ, Tạp chí Cộng sản số 785, tháng 4-2008
Đọc bài này thấy thật sự cần nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ giao thông, để chia sẻ một phần sự vất vả với các cán bộ, chiến sĩ cảnh sát giao thông.
Cảnh sát giao thông cam kết không 'núp' bắt xe (31/03/2011 15:50)
Theo giao ước, trong khi làm nhiệm vụ, các chiến sĩ CSGT không được đeo dây chuyền, kính đen, không đút tay vào túi quần, không ngồi hàng quán và không được nghe, gọi điện thoại khi đang chỉ huy giao thông.
Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt, Công an thanh Hà Nội cho biết, vừa ký giao ước thi đua để hưởng ứng cuộc vận động “Công an nhân dân chấp hành nghiêm điều lệnh, xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ”.
Theo giao ước, trong khi làm nhiệm vụ, các chiến sĩ CSGT không được đeo dây chuyền, kính đen, không đút tay vào túi quần, không ngồi hàng quán và không được nghe, gọi điện thoại khi đang chỉ huy giao thông.
Trước khi kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm giao thông, cán bộ CSGT phải chào, thông báo cho người bị kiểm tra về lỗi vi phạm, mức xử phạt và phải kết hợp giữa việc xử lý với nhắc nhở, giáo dục, không mạt sát, miệt thị người vi phạm.
Đặc biệt, CSGT không được đứng trong bóng tối, gốc cây, cột điện và góc khuất để tránh nghi ngờ, gây dư luận xấu trong nhân dân. Ngoài ra, lực lượng CSGT sẽ tiếp tục duy trì việc đứng bục chỉ huy giao thông vào giờ cao điểm trong ngày.
17-6-2011 (Vietnamica.net) – Một điều rất thú vị: thường xuyên đi du lịch đó đây, khám phá đời sống ở những vùng đất mới chính là một trong những bí quyết thành công của người Israel. Đối với người Việt Nam, chắc hẳn ai cũng biết câu thành ngữ “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”.
Kirzner mô tả những người khởi nghiệp kinh doanh là những người có đủ khả năng nhạy bén để phát hiện được các cơ hội lợi nhuận mà trước đó chưa bị phát hiện ra, thế rồi tận dụng các cơ hội đó. Theo cách Kirzner mô tả, quá trình khởi nghiệp liên quan chặt chẽ tới khả năng phát hiện và chú ý tới những thứ mà không ai trước đó từng chú ý. Tuy nhiên, một số người có năng lực và ở vị trí quan sát một số kiểu cơ hội lợi nhuận nhất định tốt hơn những người khác. Ví dụ, những người được đào tạo tốt về kỹ thuật cơ khí sẽ có khả năng tìm được cơ hội lợi nhuận tiềm năng trong việc thiết kế động cơ đốt trong tốt hơn nhiều so với một luật sư. Một người chưa bao giờ tới bãi biển sẽ khó nắm bắt được cơ hội bán kem hoặc mở cửa hàng bán áo phông trên bãi biển. Những người thường xuyên đi lại sẽ nhận thấy những thiết bị dịch vụ hữu ích xuất hiện ở nơi này mà chưa có ở nơi kia, có thể tạo ra cơ hội lợi nhuận.
Sự nhạy bén khởi nghiệp bản thân nó chẳng liên quan gì tới kiến thức, và sự nhạy bén này không gây tốn kém chi phí gì cả, theo nghĩa là, “nhạy bén” không cần phải sử dụng nguồn lực gì. Tuy nhiên, những hoạt động trong quá khứ của một cá nhân lại có ảnh hưởng mật thiết tới năng lực của cá nhân đó trong việc nắm bắt một cơ hội lợi nhuận khi cơ hội đó xuất đầu lộ diện. Tất cả mọi người đều có những kiến thức cụ thể đối với những loại hoạt động của mình — kiến thức có tính thời gian và không gian đặc thù mà không nhất thiết những người khác có thể chia sẻ cùng.
Chính những hiểu biết này khiến cho năng lực quan sát các cơ hội của mọi người rất khác nhau. Chẳng hạn, chẳng có gì trùng hợp hay ngẫu nhiên khi người sáng tạo ra con chip vi xử lý là một kỹ sư điện, chứ không phải một nhà thơ. Tất nhiên, kiến thức bản thân nó không tạo ra nhận thức khởi nghiệp, nhưng kiến thức tạo ra cơ hội để quan sát thấy những thứ mà trước kia chưa ai chú ý do thiếu loại kiến thức cần thiết. Điều này tạo ra sự kết nối giữa kiến thức kiểu Friedrich Hayek (1899-1992) và quá trình khởi nghiệp kiểu Kirzner. Lý thuyết kinh tế đã khiến cho nhiều kinh tế gia bị định kiến về cơ hội lợi nhuận sai lầm, bởi lẽ tại điểm cân bằng cạnh tranh tân cổ điển, mọi cơ hội lợi nhuận đều biến mất do quá trình cạnh tranh.
16-6-2011 (Vietnamica.net) – Nhiều người Việt Nam rất ngưỡng mộ danh nhân Nhật Bản Fukuzawa. Fukuzawa Yukichi được người dân Nhật Bản xem như bậc “khai quốc công thần.” Ông được tôn vinh bởi tính triệt để và tầm mức vượt trội của tư tưởng trong công cuộc khai sáng tinh thần quốc dân Nhật Bản, đem lại linh hồn, động lực và sự hậu thuẫn cho quá trình Duy tân của chính phủ Minh Trị. Các tác phẩm của ông, không đồ sộ mà dung dị, đời thường nhưng chứa đựng nguyên lý sâu sắc và sức thuyết phục mạnh mẽ. Bởi vậy, tới mãi thế kỷ 21 này, người ta vẫn đọc vẫn thực hành những điều Fukuzawa đã viết ra trong Khuyến học vào 200 năm trước.
“Liệu Việt Nam có Fukuzawa không?” Câu hỏi này được trả lời bằng câu hỏi “Việt Nam có độc giả cho sách của Fukuzawa không?”
Cả thế giới đã ngưỡng mộ sự bình tĩnh và quả cảm của người Nhật trước thảm họa kép sóng thần và hạt nhân vào tháng 3-2011. Sau nhiều tháng, nỗ lực khắc phục sự cố tại các nhà máy điện hạt nhân Fukushima I và Fukushima II vẫn là tâm điểm chú ý của không chỉ người dân Nhật Bản mà cả cộng đồng quốc tế. 50 cán bộ và kỹ sư tình nguyện làm việc trong nguy hiểm tại đây được gọi bằng cái tên “Nhóm anh hùng cảm tử Fukushima 50′‘. Với rất nhiều người trên thế giới, họ là hình ảnh của những vị anh hùng thực thụ, hi sinh mọi thứ vì một tương lai tốt đẹp hơn, kỷ luật, quyết đoán và từ chối lùi bước trước nghịch cảnh hay thậm chí là cái chết.
Cuối tháng 6-2011, thêm một lần nữa, thế giới phải nghiêng mình trước tinh thần dân tộc Nhật Bản. Hơn 1000 các kỹ sư lành nghề nghỉ hưu, những người đã qua tuổi 60, đã tập hợp nhau lại và tình nguyện thay thế những người trẻ tuổi đang thực hiện nhiệm vụ khắc phục sự cố tại các nhà máy hạt nhân. Họ bày tỏ nguyện vọng được làm công việc dọn dẹp và xử lý các vấn đề liên quan tới rò rỉ phóng xạ thay cho những người trẻ tuổi bởi một lý do đơn giản: đủ già để làm việc nguy hiểm. Những người trẻ tuổi còn cả tương lai dài phía trước, không nên phải mạo hiểm sinh mạng và sức khỏe. Đó là điều mà kỹ sư 72 tuổi Yasuteru Yamada lý giải vì sao ông đưa ra sáng kiến này.
Song ông Yamada còn có một phát biểu đáng ghi nhớ hơn nhiều, nó phản ánh một đức tính quan trọng của người Nhật, một đức tính cần thiết cho thành công của bất kỳ cá nhân, tổ chức, hay quốc gia nào. Đó là tinh thần trách nhiệm và dám nhận trách nhiệm. Yamada đã phát biểu: Chính thế hệ của chúng tôi đã quyết định xây nhà máy điện hạt nhân. Và vì thế, hôm nay, chúng tôi cần nhận lấy trách nhiện dọn dẹp…
Lời bài hát Khát Vọng Tuổi Trẻ của tác giả Vũ Hoàng
Đường dài tương lai quê hương đang gọi mời. Tuổi trẻ hôm nay chung tay xây ngày mới. Dù lên rừng hay xuống biển. Vượt bão giông vượt gian khổ. Tuổi trẻ kề vai vững vàng chân bước bạn ơi.
Điệp khúc: Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà cần hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay. Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà cần hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay.
Bài Diễn Văn Nhậm Chức - Đừng Hỏi Tổ Quốc Đã Làm Gì Cho Bạn
Tổng Thống John F. Kennedy (ngày 20-1-1961) - Phạm Đình Khuê dịch
Thưa ông Phó Tổng Thống Johnson, ông Phát Ngôn Viên, ông Tổng Trưởng Bộ Tư Pháp, Tổng Thống Eisenhower, Phó Tổng Thống Nixon, Tổng Thống Truman, các Đức Cha, cùng tất cả công dân, chúng ta tiến hành ngày lễ hôm nay không phải cho thắng lợi của một đảng phái, nhưng là lễ kỷ niệm của tự do - hình tượng của một kết thúc, cũng như là một sự khởi đầu - nó biểu hiện sự phục hồi, cũng như sự thay đổi. Như tôi đã tuyên thệ trước quý vị và Thượng Đế Toàn Năng cùng một lời thề trang nghiêm mà các thế hệ tiền nhân của chúng ta đã từng thề cách đây hơn một thế kỷ ba phần tư.
Thế giới giờ đây khác nhiều. Con người đang giữ quyền hành trong tay có thể tiêu hủy mọi hình thức nghèo đói của con người và mọi hình thức của cuộc sống con người. Và chưa hết, cũng chính những niềm tin của cuộc cách mạng này mà các tiền nhân của chúng ta đã chiến đấu đang vẫn là những vấn nạn vòng quanh địa cầu - niềm tin rằng nhân quyền không đến từ sự hào phóng của một quốc gia, nhưng từ bàn tay của tạo hóa.
Ngày nay chúng ta không dám quên rằng chúng ta là con cháu của cuộc cách mạng đầu tiên đó. Hãy để chữ nghĩa đi về phía trước từ lúc này và nơi này, tới bạn bè cũng như kẻ thù, rằng ngọn đuốc thiêng đã được trao tới một thế hệ mới của người Mỹ - sanh ra trong thế kỷ này, tôi luyện bởi chiến tranh, rèn luyện kỹ luật bởi nền hòa bình cay đắng và khó khăn, hãnh diện về các truyền thống cổ truyền của chúng ta - và chúng ta không muốn làm chứng nhân hay cho phép việc tháo gỡ dù là chậm chạp những quyền con người mà Quốc Gia này luôn luôn cam kết, và chúng ta cam kết đều này tại Mỹ Quốc cũng như trên toàn thế giới.
Hãy để mỗi quốc gia biết, cho dù họ mong chúng ta thành công hay thất bại, rằng nước Mỹ sẽ trả bằng mọi giá, dù chịu bao gánh nặng, gặp bao nhiêu khó khăn, được giúp đỡ bởi bè bạn, phản đối từ kẻ thù, để bảo đảm sự tồn tại và thành công của tự do.
Đó là những điều chúng ta có thể hứa - và hơn nữa.
Với những đồng minh cũ có nguồn gốc văn hóa và tôn giáo mà chúng ta cùng đồng chia xẻ, chúng ta hứa sẽ trung thành với những người bạn tin cẩn này. Đoàn kết, có chút đỉnh chúng ta không thể làm trong một tổ hợp đầu tư. Chia rẽ, có chút đỉnh chúng ta có thể làm - chúng ta không dám đối diện với những thử thách to lớn đang đối mặt và bị chia cắt ra từng mãnh vụn.
Với những quốc gia mới thành lập mà chúng ta chào đón vào thế giới tự do, chúng ta hứa bằng lời của chúng ta rằng một hình thức kiểm soát thuộc địa đã qua đi chỉ đơn thuần được thay thế bằng một chế độ độc tài sắc máu hơn. Chúng ta sẽ không luôn kỳ vọng rằng chúng sẽ tương trợ quan điểm của chúng ta.
Chúng ta sẽ luôn luôn hy vọng tìm thấy họ tự mình nương tựa vào chính sự tự do của chính họ - và hãy nhớ rằng, trong quá khứ, những kẻ điên rồ tìm kiếm sức mạnh bằng cách cỡi cọp sau cùng đã nằm trong bụng cọp.
Với những kẻ khốn cùng sống trong các lều mục và các làng mạc khắp địa cầu đang tranh đấu để phá vỡ những liên kết của nghèo đói khủng khiếp, chúng ta hứa bằng các nỗ lực tốt nhứt của chúng ta để giúp họ tự giúp mình, cho dù là thời gian bao lâu đi chăng nữa - không phải vì người Cộng Sản có lẽ đang làm điều này, không phải vì chúng ta tìm kiếm phiếu bầu từ họ, nhưng bởi vì đó là điều đúng. Nếu một xã hội tự do không thể giúp những kẻ nghèo khó, nó sẽ không cứu được một số ích giàu có.
Với những nước cộng hòa chị em phía nam biên giới chúng ta, chúng ta dâng tặng một lời hứa đặc biệt - biến những dòng chữ đẹp thành những hành động đẹp - trong một đồng minh mới để cùng tiến triễn - để giúp những người tự do và những chính quyền tự do loại bỏ sợi dây xích nghèo đói. Nhưng cuộc cách mạng của hy vọng một cách hòa bình này không thể trở thành con mồi cho các tranh chấp siêu cường. Hãy để các quốc gia láng giềng của chúng ta biết rằng chúng ta sẽ tiếp tay họ để chống lại xâm lược hay lật đổ bất kỳ nơi đâu ở Châu Mỹ. Và hãy cho mọi siêu cường khác biết rằng phần bán cầu này có ý định giữ vững ngôi nhà của chính họ.
Với hội đồng quốc tế của các quốc gia có chủ quyền, Liên Hiệp Quốc, hy vọng tốt đẹp sau cùng của chúng ta trong một thời đại mà vũ khí chiến tranh đã vượt xa văn kiện hòa bình, chúng ta tiếp tục lời hứa tương trợ của chúng ta - ngăn chặn nó trong việc trở thành một diễn đàn cho các lời công kích - làm gia tăng sức mạnh chống đỡ của những quốc gia mới và yếu thế - và nới rộng khu vực mà giá trị pháp lý có thể đạt tới.
Sau cùng, với những quốc gia đã tạo cho chính họ trở thành kẻ thù của chúng ta, chúng ta đệ trình không phải là một lời hứa hẹn nhưng là một đòi hỏi, rằng: cả hai phía bắt đầu một lần nữa công cuộc đeo đuổi hòa bình, trước khi sức mạnh tàn phá đen tối được buông lỏng ra bởi khoa học sẽ ngốn hết mọi nhân loại vào nó theo kế hoạch hoặc tai nạn tự hủy diệt.
Chúng ta không dám cám dỗ họ với những yếu kém. Chỉ vì khi đôi tay của chúng ta chỉ đủ vượt qua nghi ngờ, chúng ta không tin chắc những gì phía sau sự ngờ vực rằng chúng sẽ không bao giờ được làm.
Nhưng không một ai trong nhóm hai quốc gia siêu cường có thể an tâm từ con đường hiện tại mà chúng ta đang đi - cả hai đều đang chịu đựng quá sức mình cái giá của vũ khí hiện đại, cả hai đã báo động đúng đắn về sự bành trướng chết người của vũ khí nguyên tử, nhưng cả hai vẫn đang chạy đua để thay đổi sự quân bình đáng sợ và không chắc chắn đó để nằm trong bàn tay của nhân loại trong trận chiến sau cùng.
Vì vậy hãy để chúng ta bắt đầu lại - hãy nhớ rằng ở cả hai phía việc lịch sự không phải là một dấu hiệu của sự yếu hèn, và tính thành thật luôn luôn là đối tượng cần kiểm nhận. Hãy để chúng ta đừng thương thuyết trên sự lo sợ. Mà hãy để chúng ta không bao giờ sợ thương thuyết.
Hãy để cả hai phía khám phá ra những vấn đề đoàn kết chúng ta lại thay vì đập vào những khó khăn này mà chia rẽ chúng ta.
Hãy để cả hai phía, cho lần đầu tiên, trình bày những đề nghị chính xác và nghiêm túc trong việc thanh tra và kiểm soát vũ khí - và đem những sức mạnh vô hạn trong việc tiêu diệt các quốc gia khác dưới sự kiểm soát tuyệt đối của các quốc gia khác.
Hãy để cả hai phía tìm cách nâng đỡ những khám phá tuyện mỹ của khoa học thay vì sự kinh hãi của nó. Cùng với nhau, chúng ta hãy khám phá những vì sao, chế ngự các sa mạc, xóa bỏ các bịnh tật, đi sâu vào lòng đại dương, và khuyến khích nghệ thuật cùng thương mại phát triển.
Hãy để cả hai phía đoàn kết để lưu tâm vào mọi hẻm hóc của trái đất như trong lời phán quyết của Isaiah - "giải tỏa gánh năng - và hãy để những kẻ áp bức được tự do."
Và nếu sự khởi đầu của việc hợp tác có lẽ bị đẩy lùi bởi một rừng hoài nghi, hãy để cả hai phía cùng nhau tạo nên một cố gắng mới, không phải một cân bằng sức mạnh mới, nhưng mà là một thế giới mới của luật pháp, nơi mà những quốc gia mạnh rất công bằng và quốc gia yếu được an ninh và hòa bình được bảo tồn.
Mọi thứ sẽ không hoàn tất trong vòng 100 ngày đầu nhậm chứt. Hay nó sẽ được hoàn tất trong 1,000 ngày đầu, hay cả nhiệm kỳ mà cơ quan Hành Pháp này có hiệu lực, và có lẽ là trong cả cuộc đời của chúng ta trên hành tinh này. Nhưng hãy để chúng ta bắt đầu.
Trong tay quý vị, các công dân Hoa Kỳ, hơn là trong tay tôi, sẽ có được sự thành công hay thất bại sau cùng trong đường lối chính sách của chúng ta. Kể từ khi quốc gia này được thành lập, mỗi thế hệ của người Mỹ lại được triệu hồi để đưa lời chứng nhận về sự trung thành đối với quốc gia của họ. Những nấm mồ của những người Mỹ trẻ đã trả lời cho sự kêu gọi phục vụ đất nước trên toàn thế giới.
Giờ đây, hồi còi kêu gọi lại vang lên đối với chúng ta một lần nữa - không phải là lời kêu gọi vũ trang, dù rằng vũ khí là vật chúng ta cần; không phải là lời kêu gọi ra chiến trường, mặc dù chúng ta đang ở trong trận địa chiến - nhưng mà là một lời kêu gọi để gánh vác gánh nặng cho một cuộc đấu tranh lâu dài và không rõ ràng, hết năm này sang năm khác, "vui mừng trong hy vọng, kiên nhẫn trong nỗi khổ đau" - một cuộc tranh đấu chống lại kẻ thù chung của nhân loại: bạo tàn, nghèo đói, bịnh tật, và chiến tranh.
Có thể chúng ta luyện rèn chống lại những kẻ thù này và các đồng minh toàn cầu của chúng, Bắc và Nam, Đông Và Tây, mà có thể đảm bảo một cuộc sống thành tựu cho tất cả nhân loại? Quý vị có tiếp tay vào nỗ lực lịch sử này không?
Trong lịch sử dài của thế giới, chỉ một vài thế hệ được trao cho nhiệm vụ bảo vệ tự do trong những giờ phút lâm nguy. Tôi không chùn chân trong trách nhiệm này - tôi chào đón việc đó. Tôi không tin rằng bất kỳ ai trong chúng ta sẽ thay đổi vị trí với bất kỳ người nào khác hay bất kỳ thế hệ nào khác. Năng lực, niềm tin, và sự cống hiến mà chúng ta mang đến với nỗ lực này sẽ thắp sáng đất nước chúng ta và tất cả những ai phụng sự nó -- và ánh sáng từ ngọn lửa đó có thể thực sự thắp sáng thế giới.
Và vì thế, hỡi các công dân Hoa Kỳ: Xin đừng hỏi tổ quốc có thể làm gì cho bạn - mà hãy hỏi rằng bạn có thể làm được gì cho tổ quốc.
Hỡi các công dân trên thế giới: Xin đừng hỏi nước Mỹ sẽ làm gì cho các bạn, mà cùng với nhau chúng ta có thể làm được gì cho tự do của nhân loại.
Sau cùng, cho dù bạn là công dân Hoa Kỳ hay công dân của thế giới, hãy tự hỏi chính chúng ta về các tiêu chuẩn cao về sức mạnh và sự hy sinh mà chúng ta đã đòi hỏi từ quý vị. Với một tấm lòng nhân hậu, là giải thưởng chắc chắn cho chúng ta, với lịch sử sẽ là lời phán quyết sau cùng cho việc làm của chúng ta, hãy để chúng ta tiến tới trước và dẫn đường mãnh đất mà chúng ta yêu thương, cầu xin phước lành và sự trợ giúp của Thượng Đế, nhưng phải biết rằng nơi đây trên trái đất này, việc làm của Thượng Đế phải thực sự là của chính chúng ta.
Vice President Johnson, Mr. Speaker, Mr. Chief Justice, President Eisenhower, Vice President Nixon, President Truman, reverend clergy, fellow citizens, we observe today not a victory of party, but a celebration of freedom--symbolizing an end, as well as a beginning--signifying renewal, as well as change. For I have sworn before you and Almighty God the same solemn oath our forebears prescribed nearly a century and three quarters ago.
The world is very different now. For man holds in his mortal hands the power to abolish all forms of human poverty and all forms of human life. And yet the same revolutionary beliefs for which our forebears fought are still at issue around the globe--the belief that the rights of man come not from the generosity of the state, but from the hand of God.
We dare not forget today that we are the heirs of that first revolution. Let the word go forth from this time and place, to friend and foe alike, that the torch has been passed to a new generation of Americans--born in this century, tempered by war, disciplined by a hard and bitter peace, proud of our ancient heritage--and unwilling to witness or permit the slow undoing of those human rights to which this Nation has always been committed, and to which we are committed today at home and around the world.
Let every nation know, whether it wishes us well or ill, that we shall pay any price, bear any burden, meet any hardship, support any friend, oppose any foe, in order to assure the survival and the success of liberty.
This much we pledge--and more.
To those old allies whose cultural and spiritual origins we share, we pledge the loyalty of faithful friends. United, there is little we cannot do in a host of cooperative ventures. Divided, there is little we can do--for we dare not meet a powerful challenge at odds and split asunder.
To those new States whom we welcome to the ranks of the free, we pledge our word that one form of colonial control shall not have passed away merely to be replaced by a far more iron tyranny. We shall not always expect to find them supporting our view. But we shall always hope to find them strongly supporting their own freedom--and to remember that, in the past, those who foolishly sought power by riding the back of the tiger ended up inside.
To those peoples in the huts and villages across the globe struggling to break the bonds of mass misery, we pledge our best efforts to help them help themselves, for whatever period is required--not because the Communists may be doing it, not because we seek their votes, but because it is right. If a free society cannot help the many who are poor, it cannot save the few who are rich.
To our sister republics south of our border, we offer a special pledge--to convert our good words into good deeds--in a new alliance for progress--to assist free men and free governments in casting off the chains of poverty. But this peaceful revolution of hope cannot become the prey of hostile powers. Let all our neighbors know that we shall join with them to oppose aggression or subversion anywhere in the Americas. And let every other power know that this Hemisphere intends to remain the master of its own house.
To that world assembly of sovereign states, the United Nations, our last best hope in an age where the instruments of war have far outpaced the instruments of peace, we renew our pledge of support--to prevent it from becoming merely a forum for invective--to strengthen its shield of the new and the weak--and to enlarge the area in which its writ may run.
Finally, to those nations who would make themselves our adversary, we offer not a pledge but a request: that both sides begin anew the quest for peace, before the dark powers of destruction unleashed by science engulf all humanity in planned or accidental self-destruction.
We dare not tempt them with weakness. For only when our arms are sufficient beyond doubt can we be certain beyond doubt that they will never be employed.
But neither can two great and powerful groups of nations take comfort from our present course--both sides overburdened by the cost of modern weapons, both rightly alarmed by the steady spread of the deadly atom, yet both racing to alter that uncertain balance of terror that stays the hand of mankind's final war.
So let us begin anew--remembering on both sides that civility is not a sign of weakness, and sincerity is always subject to proof. Let us never negotiate out of fear. But let us never fear to negotiate.
Let both sides explore what problems unite us instead of belaboring those problems which divide us.
Let both sides, for the first time, formulate serious and precise proposals for the inspection and control of arms--and bring the absolute power to destroy other nations under the absolute control of all nations.
Let both sides seek to invoke the wonders of science instead of its terrors. Together let us explore the stars, conquer the deserts, eradicate disease, tap the ocean depths, and encourage the arts and commerce.
Let both sides unite to heed in all corners of the earth the command of Isaiah--to "undo the heavy burdens ... and to let the oppressed go free."
And if a beachhead of cooperation may push back the jungle of suspicion, let both sides join in creating a new endeavor, not a new balance of power, but a new world of law, where the strong are just and the weak secure and the peace preserved.
All this will not be finished in the first 100 days. Nor will it be finished in the first 1,000 days, nor in the life of this Administration, nor even perhaps in our lifetime on this planet. But let us begin.
In your hands, my fellow citizens, more than in mine, will rest the final success or failure of our course. Since this country was founded, each generation of Americans has been summoned to give testimony to its national loyalty. The graves of young Americans who answered the call to service surround the globe.
Now the trumpet summons us again--not as a call to bear arms, though arms we need; not as a call to battle, though embattled we are--but a call to bear the burden of a long twilight struggle, year in and year out, "rejoicing in hope, patient in tribulation"--a struggle against the common enemies of man: tyranny, poverty, disease, and war itself.
Can we forge against these enemies a grand and global alliance, North and South, East and West, that can assure a more fruitful life for all mankind? Will you join in that historic effort?
In the long history of the world, only a few generations have been granted the role of defending freedom in its hour of maximum danger. I do not shrink from this responsibility--I welcome it. I do not believe that any of us would exchange places with any other people or any other generation. The energy, the faith, the devotion which we bring to this endeavor will light our country and all who serve it--and the glow from that fire can truly light the world.
And so, my fellow Americans: ask not what your country can do for you--ask what you can do for your country.
My fellow citizens of the world: ask not what America will do for you, but what together we can do for the freedom of man.
Finally, whether you are citizens of America or citizens of the world, ask of us the same high standards of strength and sacrifice which we ask of you. With a good conscience our only sure reward, with history the final judge of our deeds, let us go forth to lead the land we love, asking His blessing and His help, but knowing that here on earth God's work must truly be our own.
Từng được xem là cơ hội đầu tư đang giá, nhưng giờ đây, các công ty Trung Quốc niêm yết tại thị trường chứng khoán Mỹ đang thể hiện hình ảnh rất xấu. China Electric Motor, Longtop Financial Technologies, Puda Coal, China MediaExpress, Subaye lúc này đang nằm trong nhóm "cổ phiếu bị thất sủng".
Nguyên nhân, theo phản ánh của Asia Times, là các gian lận kế toán. Sâu xa hơn là bản chất văn hóa. Rất nhiều chủ doanh nghiệp Trung Quốc coi việc niêm yết tại Mỹ như một nỗ lực thỏa mãn nhu cầu xây dựng thanh thế cho cá nhân và doanh nghiệp. Điều này dẫn tới việc họ, từ sâu thẳm bên trong, không mấy coi trọng việc tuân thủ các chuẩn mực kế toán, tài chính và quy tắc công bố thông tin.
Chuyên gia về kế toán Trung Quốc Paul Gillis khẳng định điều đó khi chỉ ra rằng các công ty Trung Quốc không mấy quan tâm tới việc họ huy động được bao nhiêu vốn từ nhà đầu tư Mỹ. Phần lớn tiền bán cổ phiếu nằm yên tại các ngân hàng.
Câu chuyện này gợi nhiều liên tưởng tới thị trường chứng khoán Việt Nam.
Em thấy cả hai gói trên đều cho phép sử dụng tiếng Việt trong Tex. Mỗi gói có cái hay riêng. Chẳng hạn như VnTeX của Hàn Thế Thành được tích hợp sẵn trong Miktex (bản 2.5 trở lên) và không cần cài đặt còn OmegaVN cho phép sử dụng nhiều kiểu font linh hoạt hơn và có vẻ "mỹ miều" hơn...
Nhưng Omega thì phải cài đặt để sử dụng trong Miktex vì chưa được tích hợp sẵn.
Có điều, dù đã nhận được hướng dẫn và có tham khảo tại VietTUG nhưng em vẫn đang băn khoăn, ngoài việc có được nhiều font đẹp hơn, OmegaVN còn có tiện ích vượt trội nào hơn so với VnTeX không? Vì trong Miktex đã có sẵn VnTeX, cài thêm OmegaVN nữa liệu có cần thiết? Với lại, em cũng không rành DOS chút nào, và rất "gà" IT, nên mỗi lần đụng vào Latex mà gặp lỗi là như thể đang "đánh vật" vậy.
Mong các cao nhân chỉ giúp em!
Em sử dụng LaTeX để soạn thảo văn bản, nhưng chỉ mới được hơn 1 năm, mức độ không quá phức tạp, chỉ bao gồm một số câu lệnh đơn giản và có xử lý một chút công thức. Hiện tại, editor em dùng là TeXnicCenter Alpha và Miktex 2.9, bộ gõ Unikey 4.0 RC1. Mỗi khi soạn file em chỉ khai báo thế này: \documentclass{report} \usepackage[utf8]{vietnam} \ begin{document} [nội dung văn bản] \ end{document} là có thể sử dụng được font tích hợp sẵn và em dùng luôn font mặc định của gói, thấy cũng ổn.